Thứ năm, 06/03/2025,

Chuyên đề: Thực hiện chuyển đổi số di tích lịch sử cấp quốc gia Đền Năn, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô

Thứ ba, 04/3/2025 | Đã xem: 24 | Nhận xét: 0
  • Đánh giá cho bài viết:
  • 10 điểm ( 2 đánh giá )

Di tích có tên thường gọi là “Đền Năn” theo truyền lại kết hợp với việc khảo sát thực tế ở địa phương cùng các di sản còn lưu giữ ở di tích thì ngày 17 tháng 12 năm 1788 quân Thanh tiến vào Thăng Long, quân Tây Sơn ở Bắc Hà đã rút về Tam Điệp. Lợi dụng địa hình lợi hại ở vùng này quân ta đã xây dựng một phòng tuyến vững chắc. Ngày 15 tháng 01 năm 1789 đại quân của Quang Trung tập kết ở phòng tuyến tam Điệp- Biện Sơn. Vùng xung quanh và bản thân di tích cũng có liên quan đến sự kiện này. Từ đó, trong một khoảng thời gian dài nhiều cánh đồng xung quanh di tích không có người trồng cấy cây năn mọc lên rất nhiều nên di tích ngày nay thường có tên gọi là đền Năn. Tên lâu đời cũng là tên chữ của di tích là "Thần xá miếu", tên này được ghi lại ở nhiều văn bản chữ Hán hiện còn ở địa phương. Thần xã miếu nghĩa là miếu cũng là nhà của thần ở. Thần ở đây chỉ về năm vị tướng được phong là thần ở đời Hùng Vương thứ 6. Tên gọi khác là đền trong thành Lê Thiên Phúc vì di tích nằm ở phía trong thành Lê Thiên Phúc do Lê Đại hành đắp năm 982 trong lần đi đánh quân chiêm. Thành tên gọi này cũng có từ lâu đời xong chưa gặp trong các văn bản cổ. Theo chúng tôi thì đây cũng là tên gọi theo vị trí của di tích là tên gọi có tính chất dân gian. Còn một tên gọi khác ít gặp vì ít người nói là "đền Năm", những người theo quan điểm này giải thích vì đền thờ 5 vị thần nên gọi là "Năm". Có lẽ ở đây đã nhầm lẫn giữa âm năn và năm và lại có sự trùng lặp giữa âm "Năm" với ý niệm là 5 vị thần.

 

Ảnh: Đền Năn, xã Yên Thắng- di tích lịch sử cấp quốc gia

 

Di tích hiện nay thuộc thôn Quảng Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; phía Bắc cách thành phố Hoa Lư khoảng 10 km, phía Tây cách thành phố Tam Điệp khoảng 1,2 km, phía Đông nam cách biển khoảng 15 km (tính theo đường chim bay).

 

Để tới di tích, khách tham quan di chuyển từ thị xã Ninh Bình (nay là thành phố Hoa Lư) theo đường quốc lộ 1A, hướng Thanh Hóa đi 9 km, đến ngã ba Bình Sơn rẽ trái theo đường số 59 khoảng 2 km, tới cầu Tu, qua cầu khoảng 3 km là tới di tích. Đây là con đường thuận tiện nhất có thể đi bằng ô tô, xe máy, xe đạp, ...

 

Theo truyền lại thì đền Năn thờ 5 vị thần thời Hùng Vương thứ 5. Năm vị thần vốn là dòng dõi vua Hùng trấn thủ Phùng Nam lĩnh có công lớn trong việc làm cho đất nước cường thịnh 5 vị thần là chàng Hoàng, Quý Hương, Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba. Trong các đạo sắc phong của triều Lê Nguyễn cũng ghi tên những vị thần như trên.

 

Điều lý thú khác, vị trí của di tích là vị trí quan trọng của đất nước ta, nhất là từ thời kỳ Tiền Lê cũng như các triều đại sau này. Vì vậy, di tích để lại rất nhiều dấu ấn của các triều đại.

 

Đây là di tích mang đậm yếu tố lịch sử, đặc biệt với những ý nghĩa là nơi lưu niệm những sự kiện lịch sử của nhiều triều đại, với nhiều nhân vật lịch sử của đất nước; từ thời kì Hùng Vương, Lê Đại Hành, các vua nhà Trần, thời kì Tây Sơn,… về kiến trúc nghệ thuật của di tích mang phong cách kiến trúc truyền thống dân tộc, với quy mô tương đối lớn.

 

Đền Năn còn nhiều hiện vật rất quý giá về mặt lịch sử văn hóa một số hiện vật quan trọng:

 

Một bức đại tự có đề 5 chữ Hán “Quảng Thượng đế linh từ” treo ở gian giữa Tiền Bái và 1 bức có 5 chữ Hán “Sơn hà đế tráng cư” treo ở gian giữa trung đường. Đây là 2 bức đại tự trạm khắc vào thời Nguyễn, nghệ thuật chạm khắc và sơn son thiếp vàng đẹp. Người tiến cúng 2 bức đại tự trên là quan Đông các đại học sĩ Vũ Phạm Khải. Hai bức đại tự này nói về việc vua Lê Đại Hành và Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã từng ngự dinh ở trong di tích

 

+ Một quả cân bằng đá, hình bầu dục vốn ở kho Mễ (tức kho thóc gạo) thời Quang Trung có sử dụng kho này.

 

+ Đại đao bằng sắt chưa xác định được niên đại.

 

+ Nòng súng cổ là loại súng phun lửa thời Tây Sơn

 

+ Tiền đồng thưởng của vua Quang Trung một mặt đề nổi chữ Quang Trung thông bảo, một mặt có 8 chữ “Càn, thuận, lưu, hà, đăng, phong, cốc, niên” (đất nước thuận hòa, năm năm được mùa).

 

+ Song bình cổ và có kích cỡ lớn, ít thấy ở trong vùng.

 

+ Song bình men trắng xanh, hoa văn trúc lâm thất hiền, dưới đáy có chữ “Đại Thanh Khang Hy niên chế” (chế tạo năm Khang Hy), đời nhà Thanh (1662-1792).

 

+ 4 bộ tam sư bằng đồng (mõi bộ gồm 1 đỉnh tròn, hai cây đèn đồng)

 

+ 1 kiệu bát cống làm vào thời cuối Lê đầu Nguyễn, 1 kiệu song hành đời Nguyễn

 

+ 5 nhang án đời Nguyễn, chạm khắc tứ linh, sơn son thiếp vàng

 

+ 3 long ngai (một thời Hậu Lê, 2 chiếc thời Nguyễn)

 

+ 1 cỗ khám thời Nguyễn, chạm khắc khá đẹp

 

+ 1 Giá chiêng bằng cây thời Nguyễn, thuộc loại độc đáo chưa gặp ở nơi nào khác.

 

Mặc dù nằm ở vùng có nhiều biến động lịch sử (đặc biệt là chiến tranh) qua các triều đại, song cho đến nay di tích còn lại vẫn là một ngôi đền cổ, với kiến trúc khá đồ sộ, kiến trúc còn tương đối tốt. Di tích còn là công trình kiến trúc cổ, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc truyền thống dân tộc, song lại có nét riêng về nghệ thuật kiến trúc cổ ở trong vùng.

 

Các hiện vật trong di tích lịch sử luôn được nhân dân trân trọng giữ gìn và bảo quản tốt.

Lễ hội đền Năn ngày 10 tháng Giêng được tổ chức quy mô, cứ 2 năm lại mở hội một lần, thời gian tổ chức 2 ngày. Nghi thức rước kiệu Thành hoàng nghi vệ từ chùa Tháp Sơn Tự về đền. Hội rước theo cổ truyền có tất cả 7 kiệu các đồ lệ bộ; trong đó có 02 kiệu song hành, 02 bát cống, 02 kiệu mẫu, 01 kiệu Bác Hồ.

 

Di tích đền Năn có nhiều giá trị lịch sử quý giá. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, di tích cũng từng là cơ sở cho cán bộ lãnh đạo của ta nằm vùng để hoạt động cách mạng. Đến năm 1993 đền Năn được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Tác giả: Huyện đoàn Yên Mô

 

Nhận xét

Quản lý văn bản

Một cửa điện tử

Độ ẩm:

Gió:

Bình chọn

Đánh giá giao diện, thông tin cung cấp trên Trang TTĐT

Thống kê truy cập

925859

Trực tuyến : 30

Hôm nay : 428

Hôm qua : 8335